Ngày nay phong lan được “trồng” khá phổ
biến trong nhân dân, nhất là một số loài dễ trồng như Dendrobium. So
với một số lọai cây hoa cảnh khác thì phong lan là một lọai hoa cảnh
tương đối mới lạ so với nhiều người, vì thế nếu không có kinh nghiệm thì
rất dễ bị lúng túng, bỡ ngỡ trong qúa trình chăm sóc chúng, trong đó có
khâu phòng trừ sâu bệnh. Bên cạnh một số đối tượng sâu bệnh thường gặp
như rệp sáp, nhện đỏ, bệnh thối nhũn vi khuần...thì bệnh thối rễ do nấm
Sclerotium rolfsii sacc gây ra cũng là một đối tượng thường xuất hiện
và gây hại cho cây phong lan.
Bệnh thường gây hại nhiều trên một số giống lan như Phalaenopsis (Hồ điệp): Dendrobium (Đăng lan), Cattleya (Cát lan)...Với những giống có bộ rễ to, khỏe, chắc như Vanda (Vân lan)... bệnh thường hại ít hơn. Đối với những cây lan còn nhỏ vừa mới được “ra ngôi” nếu bộ rễ bị hại thì bộ lá sẽ vàng dần, nếu nặng có thể bị chết. Với những cây lan đã trưởng thành đang phát triển tốt thì ít bị chết hơn, nhưng rễ khô và mục sẽ làm cho cây chậm phát triển, yếu ớt, còi cọc và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc ra hoa sau này.
Thường bệnh tấn công đầu tiên ở đọan rễ gần với gốc cây (nơi mà rễ tiếp xúc nhiều với chất trồng, vì nơi đây có ẩm độ cao, nhất là khi dùng vỏ dừa khô hay cám xơ dừa làm chất trồng, khi mưa hoặc tưới, nước bị giữ lại nhiều trong đó. Còn phần rễ nằm xa gốc do không tiếp xúc với chất trồng, thóang khí, khô ráo thì ít bị bệnh tấn công hơn.
Sau khi gây hại ở đọan rễ gần gốc, bệnh tiếp tục lan dần xuống phía chóp rễ, làm cho cả bộ rễ bị hư hại. Những rễ mới bị bệnh nếu không chú ý vẫn tưởng đó là rễ bình thường, vì lúc đó rễ chưa có biến đổi nhiều về mầu sắc, kích thước, nhưng nếu sờ tay bóp nhẹ thì thấy rễ đã bị khô xốp nhẹ, chứ không tươi, cứng như rễ bình thường. Khi tuốt bỏ lớp ngòai của rễ bị bệnh, thì phần lõi rễ bên trong vẫn còn dai chắc. Nếu gặp thời tiết mưa ẩm nhiều thì chỗ bị bệnh bị mục và chuyển dần sang mầu nâu đen.
Để hạn chế tác hại của bệnh có thể áp dụng một số biện pháp chính sau đây:
-Nếu trời mưa dài ngày liên tục nên dùng vải nilon che phía trên giàn lan để hạn chế bớt nước mưa xối xuống chậu lan.
-Về chất trồng không nên dùng các vật liệu có tính giữ nước lâu dài như vỏ dừa khô, cám xơ dừa... nên dùng dớn sợi, than củi để chất trồng không giữ nước nhiều, tạo điều kiện cho bệnh phát sinh, phát triển.
-Vào những thời điểm có ẩm độ không khí cao nên giảm bớt lượng nước tưới và cữ tưới trong ngày.
-Không nên treo các chậu lan sát sít nhau để giàn lan luôn được thông thóang, giảm bớt ấm độ không khí trong giàn lan, đồng thời hạn chế sự lây lan của bệnh từ chậu này sang chậu khác.
-Không nên che chắn qúa kín xung quanh để giàn lan luôn được thông thóang, có nhiều ánh sáng tán xạ tốt cho giàn lan.
-Không nên dùng nhiều phân bón có hàm lượng đạm cao, làm cho cây xanh mướt, bộ rễ mềm yếu, sức chống đỡ với bệnh kém.
-Khi cây đã nhiễm bệnh, cần cắt bỏ hết những rễ đã bị bệnh, treo chậu lan cách ly ra một khu riêng sau đó dùng một trong các lọai thuốc như Benlate 50WP; Fundozol 50WP; Bendazol 50WP; Vicarben 50BTN; Topsin-M 50WP; Derosal 50SC;... để phun xịt. Sau khi phun xịt thuốc nên bỏ một vài cữ tưới để thuốc không bị rửa trôi.
Bệnh thường gây hại nhiều trên một số giống lan như Phalaenopsis (Hồ điệp): Dendrobium (Đăng lan), Cattleya (Cát lan)...Với những giống có bộ rễ to, khỏe, chắc như Vanda (Vân lan)... bệnh thường hại ít hơn. Đối với những cây lan còn nhỏ vừa mới được “ra ngôi” nếu bộ rễ bị hại thì bộ lá sẽ vàng dần, nếu nặng có thể bị chết. Với những cây lan đã trưởng thành đang phát triển tốt thì ít bị chết hơn, nhưng rễ khô và mục sẽ làm cho cây chậm phát triển, yếu ớt, còi cọc và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc ra hoa sau này.
Thường bệnh tấn công đầu tiên ở đọan rễ gần với gốc cây (nơi mà rễ tiếp xúc nhiều với chất trồng, vì nơi đây có ẩm độ cao, nhất là khi dùng vỏ dừa khô hay cám xơ dừa làm chất trồng, khi mưa hoặc tưới, nước bị giữ lại nhiều trong đó. Còn phần rễ nằm xa gốc do không tiếp xúc với chất trồng, thóang khí, khô ráo thì ít bị bệnh tấn công hơn.
Sau khi gây hại ở đọan rễ gần gốc, bệnh tiếp tục lan dần xuống phía chóp rễ, làm cho cả bộ rễ bị hư hại. Những rễ mới bị bệnh nếu không chú ý vẫn tưởng đó là rễ bình thường, vì lúc đó rễ chưa có biến đổi nhiều về mầu sắc, kích thước, nhưng nếu sờ tay bóp nhẹ thì thấy rễ đã bị khô xốp nhẹ, chứ không tươi, cứng như rễ bình thường. Khi tuốt bỏ lớp ngòai của rễ bị bệnh, thì phần lõi rễ bên trong vẫn còn dai chắc. Nếu gặp thời tiết mưa ẩm nhiều thì chỗ bị bệnh bị mục và chuyển dần sang mầu nâu đen.
Để hạn chế tác hại của bệnh có thể áp dụng một số biện pháp chính sau đây:
-Nếu trời mưa dài ngày liên tục nên dùng vải nilon che phía trên giàn lan để hạn chế bớt nước mưa xối xuống chậu lan.
-Về chất trồng không nên dùng các vật liệu có tính giữ nước lâu dài như vỏ dừa khô, cám xơ dừa... nên dùng dớn sợi, than củi để chất trồng không giữ nước nhiều, tạo điều kiện cho bệnh phát sinh, phát triển.
-Vào những thời điểm có ẩm độ không khí cao nên giảm bớt lượng nước tưới và cữ tưới trong ngày.
-Không nên treo các chậu lan sát sít nhau để giàn lan luôn được thông thóang, giảm bớt ấm độ không khí trong giàn lan, đồng thời hạn chế sự lây lan của bệnh từ chậu này sang chậu khác.
-Không nên che chắn qúa kín xung quanh để giàn lan luôn được thông thóang, có nhiều ánh sáng tán xạ tốt cho giàn lan.
-Không nên dùng nhiều phân bón có hàm lượng đạm cao, làm cho cây xanh mướt, bộ rễ mềm yếu, sức chống đỡ với bệnh kém.
-Khi cây đã nhiễm bệnh, cần cắt bỏ hết những rễ đã bị bệnh, treo chậu lan cách ly ra một khu riêng sau đó dùng một trong các lọai thuốc như Benlate 50WP; Fundozol 50WP; Bendazol 50WP; Vicarben 50BTN; Topsin-M 50WP; Derosal 50SC;... để phun xịt. Sau khi phun xịt thuốc nên bỏ một vài cữ tưới để thuốc không bị rửa trôi.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét